Bồi dưỡng giáo viên mầm non hạn chế năng lực: Tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ tỉnh Lào cai

1. Đặt vấn đề
Năng lực sư phạm là vấn đề đang đươc các nhà giáo dục và quản lý giáo dục rất quan tâm, vì nó quyết định chất lượng của hoạt động giáo dục. Đối với ngành học mầm non thì năng lực sư phạm của giáo viên được thể hiện rõ rệt ở việc thực hiện có hiệu quả hoạt động chăm sóc và tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong trường mầm non. Tuy nhiên bên cạnh những giáo viên có năng lực sư phạm tốt thì còn có bộ phận nhỏ giáo viên có những hạn chế nhất định về năng lực sư phạm, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển thể chất như: Giáo viên khó khăn trong hiểu bản chất về phương pháp dạy học cũng như việc sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong hoạt động phát triển thể chất cho nênviệc tổ chức hoạt động giáo dục này chưa cao…. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi trình bày “Một số biện pháp bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên còn hạn chế về năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ mầm non – tỉnh Lào Cai”. Giúp giáo viên mầm non hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm cơ bản
Bồi dưỡng:
Theo từ điển Tiếng Việt bồi dưỡng là tăng thêm năng lực và phẩm chất
Năng lực: Có nhiều cách hiểu về khái niệm năng lực.
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổng hợp các đặc điểm tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
“Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002).
Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của việc học tập vào cuộc sống.
Như vậy, từ khái niệm chung về năng lực, chúng ta có thể hiểu năng lực của giáo viên chính là khả năng làm chủ những kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận dụng chúng một cách hợp lí vào việc tổ chức thành công các hoạt động giáo dục cho trẻ.
2.2. Một số biện pháp nâng cao năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ mầm non
Trong các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non, hoạt động giáo dục phát triển vận động đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện cho trẻ, vì vậy đòi hỏi người giáo viên mầm non phải biết tổ chức tốt hoạt động nói chung và hoạt động phát triển vận động nói riêng. Để làm được việc này những giáo viên còn hạn chế về năng lực cần làm tốt một số biện pháp sau đây:
Một là: Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sư phạm cho bản thân dưới nhiều hình thức khác nhau
Hàng năm giáo viên mầm non cần được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, không chỉ vào thời gian đầu năm học do sở giáo dục, phòng giáo dục, trường sở tại tổ chức, mà trong suốt quá trình công tác giáo viên phải có ý thức tự học, tự bồi dưỡng cho bản thân bằng cách: Dự giờ đồng nghiệp, sinh hoạt chuyên môn cùng đồng nghiệp, tham quan các trường bạn về cách sắp xếp, tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ, tìm hiểu chương trình chăm sóc giáo dục trẻ của các trường, tham dự các hội thi của ngành, tham gia các lớp học nâng cao trình độ, học trực tuyến qua truyền hình và internet những nội dung liên quan đến chuyên ngành giáo dục mầm non. Tìm hiểu thêm các kĩ năng ứng xử sư phạm, hình thức tổ chức hoạt động phát triển thể chất, học các sử dụng các phương pháp dạy học trong giờ… Phải tham gia các chương trình bồi dưỡng, tự học qua thực hành trải nghiệm, qua thực tế làm việc.
Hai là: Mỗi bài tập vận động của trẻ giáo viên phải thực hiền tốt động tác mẫu.
Phương pháp làm mẫu bài tập vận động là thông qua thị giác để hình thành biểu tượng trực quan về bài tập vận động. Phương pháp này thường được giáo viên sử dụng khi dạy bài tập mới cho trẻ hoặc khi ôn luyện các bài tập vận động nếu thấy cần thiết.
Cách tiến hành:
Đối với giáo viên: Lần đầu làm mẫu, giáo viên đưa ra biểu tương khái quát về toàn bộ bài tập, lần thứ hai nhấn mạnh chi tiết kỹ thuật của bài tập kết hợp với miêu tả kỹ thuật bài tập từ đầu đến kết thúc bài tập, Lần cuổi nhằm mục đích củng cố ở trẻ biểu tượng khái quátcủa bài tập trên cơ sở đã có những biểu tượng về từng phần của kỹ thuật bài tập.
Đối với trẻ: Quan sát giáo viên làm mẫu, đây là quá trình chuyển hóa hình ảnh của bài tập vận động từ “ngoài” từ mẫu bài tập do giáo viên thực hiện vào “trong” ghi trên vỏ não của trẻ. Sau quá trình này, biểu tượng về bài tập đã được “lưu” vào trong đầu, nó tồn tại như một chuỗi thao tác.
Yêu cầu: khi làm mẫu bài tập vận động giáo viên phải chọn vị trí đứng để tập sao cho tất cả các cháu đều nhìn thấy và nhận đúng mẫu của cô. Khi làm mẫu, giáo viên phải tập đúng, chính xác, nhẹ nhàng, đảm bảo kĩ thuật của bài tập để trẻ có biểu tượng đúng về bài tập vận động, kích thích trẻ tập tốt hơn.
Ba là : Giáo viên phải gọi rõ ràng tên bài tập, miêu tả ngắn gọn, giải thích chính xác kỹ thuật bài tập vận động.
Đặc trưng của phương pháp này là tác động chủ yếu lên hệ thống tín hiệu thứ hai, là sự tái tạo gián tiếp hiện thực trong khái niệm, trong tư duy và suy luận, giúp trẻ trong quá trình quan sát bài tập vận động, hiểu sâu hơn các bước thực hiện, tạo điều kiện cho trẻ tiếp thu bài tập vận động chính xác và đầy đủ hơn.
Cách tiến hành:
Gọi tên bài tập: Tên gọi bài tập vận động nhằm khơi gợi ở trẻ những hình ảnh, biểu tượng về bài tập đó, nhằm phát huy ở trẻ khả năng tưởng tượng và gợi nhớ những bài tập trẻ đã biết. Phương pháp này giúp trẻ nhớ các bài tập vận động không máy móc, dễ nhớ bài tập, làm giảm thời gian giải thích về cách tập cho trẻ.
Miêu tả bài tập: Là lời nói của giáo viên kết hợp với làm mẫu từng phần liên tục của bài tập theo một trình tự nhất định. Nói cách khác, miêu tả là tường thuật lại một cách toàn vẹn và lần lượt những đặc điểm kĩ thuật bài tập đã học. Giáo viên thường miêu tả những bài tập vận động khó hoặc những bài tập đa số trẻ thực hiện chưa đúng. Giáo viên có thể yêu cầu trẻ miêu tả bài tập, giúp trẻ biết cách diễn đạt bài tập vận động bằng lời nói kết hợp với thực hiện bài tập, buộc trẻ phải tập trung chú ý, phát triển tính độc lập, có ý thức trong tập luyện.
Giải thích bài tập: Giải thích khi trẻ đã có biểu tượng chung về bài tập vận động, tiến hành sau khi làm mẫu bài tập đó nhằm nhấn mạnh, đào sâu vào phần cơ bản của bài tập trẻ cần lĩnh hội, dần giúp trẻ hình thành những biểu tượng về các phần cơ bản của kĩ thuật bài tập: vận động của tay, chân, cả cơ thể khi thực hiện bài tập.
Yêu cầu: Lời nói của giáo viên phải có sức lôi cuốn, rõ ràng, mạch lạc và có hình ảnh. Lời giới thiệu đòi hỏi ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Nội dung của việc giới thiệu thay đổi phụ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của từng tiết học, vào đặc điểm cá biệt của trẻ.
Bốn là: Giáo viên linh hoạt sử dụng khẩu lệnh trong hoạt động phát triển vận động cho trẻ.
Khẩu lệnh: là lời dẫn truyền dưới dạng xác định với nội dung chính xác bắt buộc trẻ phải hành động theo.
Ví dụ: Bên phải….. quay!; sẵn sàng…. chạy! ; bước đều…. bước!…
Mục đích của khẩu lệnh là giúp trẻ phản ứng kịp thời khi bắt đầu và kết thúc hành động, tốc độ và hướng vận động chính xác. Khẩu lệnh gồm có dự lệnh (phần trước của khẩu lệnh báo để trẻ chuẩn bị) và động lệnh (phần trẻ phải thực hiện). Khẩu lệnh đưa ra phải đúng lúc, lời phát ra phải to, nhanh, gọn. Dự lệnh phát ra phải kéo dài đủ để trẻ chuẩn bị thực hiện ý đồ của động lệnh. Khi truyền khẩu lệnh, giáo viên phải đứng ở tư thế nghiêm, giọng nói của giáo viên tự tin, dõng dạc, rõ ràng để tổ chức trẻ, yêu cầu trẻ thực hiện bài tập nhanh nhẹn, chính xác.
3. Kết luận
Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên hạn chế năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động không chỉ cung cấp cho giáo viên những kỹ năng sư phạm cơ bản như kỹ năng truyền đạt, kỹ năng giảng dạy mà còn kèm theo đó là những kỹ năng chuyên biệt trong tổ chức phát triển vận động cho trẻ. Từ những thông tin có được, từ đối tượng trẻ mầm non, thầy cô có thể xây dựng lên được phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục tốt nhất. Những đối tượng do năng lực sư phạm còn hạn chế cần thiết phải tham gia khóa học bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm để nâng cao chuyên môn, bổ sung thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm cho bản thân. Góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục của địa phương, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với mỗi giáo viên về việc cần thiết phải có nghiệp vụ sư phạm khi tham gia giảng dạy ở bất kỳ một cơ sở giáo dục mầm non nào.

Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Lưu Xuân Mới, Nguyên phó trưởng khoa Quản lý, Học viện Quản lý Giáo dục “Đào tạo – bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế đổi mới và hội nhập”
2. NQ số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.
3. Đặng Hồng Phương, Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, Nhà xuất bản giáo dục, 2008.
4. Đặng Hồng Phương, Phương pháp hình thành kỹ năng vận động cho trẻ mầm non, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2012.

Th.S Chu Thị Thi Hương
Giảng viên khoa TH-MN

Bồi dưỡng giáo viên mầm non hạn chế năng lực: Tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ tỉnh Lào cai

Gửi vào: 11:30 02/11/2017

1. Đặt vấn đề
Năng lực sư phạm là vấn đề đang đươc các nhà giáo dục và quản lý giáo dục rất quan tâm, vì nó quyết định chất lượng của hoạt động giáo dục. Đối với ngành học mầm non thì năng lực sư phạm của giáo viên được thể hiện rõ rệt ở việc thực hiện có hiệu quả hoạt động chăm sóc và tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong trường mầm non. Tuy nhiên bên cạnh những giáo viên có năng lực sư phạm tốt thì còn có bộ phận nhỏ giáo viên có những hạn chế nhất định về năng lực sư phạm, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển thể chất như: Giáo viên khó khăn trong hiểu bản chất về phương pháp dạy học cũng như việc sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong hoạt động phát triển thể chất cho nênviệc tổ chức hoạt động giáo dục này chưa cao…. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi trình bày “Một số biện pháp bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên còn hạn chế về năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ mầm non – tỉnh Lào Cai”. Giúp giáo viên mầm non hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm cơ bản
Bồi dưỡng:
Theo từ điển Tiếng Việt bồi dưỡng là tăng thêm năng lực và phẩm chất
Năng lực: Có nhiều cách hiểu về khái niệm năng lực.
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổng hợp các đặc điểm tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
“Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002).
Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của việc học tập vào cuộc sống.
Như vậy, từ khái niệm chung về năng lực, chúng ta có thể hiểu năng lực của giáo viên chính là khả năng làm chủ những kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận dụng chúng một cách hợp lí vào việc tổ chức thành công các hoạt động giáo dục cho trẻ.
2.2. Một số biện pháp nâng cao năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ mầm non
Trong các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non, hoạt động giáo dục phát triển vận động đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện cho trẻ, vì vậy đòi hỏi người giáo viên mầm non phải biết tổ chức tốt hoạt động nói chung và hoạt động phát triển vận động nói riêng. Để làm được việc này những giáo viên còn hạn chế về năng lực cần làm tốt một số biện pháp sau đây:
Một là: Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sư phạm cho bản thân dưới nhiều hình thức khác nhau
Hàng năm giáo viên mầm non cần được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, không chỉ vào thời gian đầu năm học do sở giáo dục, phòng giáo dục, trường sở tại tổ chức, mà trong suốt quá trình công tác giáo viên phải có ý thức tự học, tự bồi dưỡng cho bản thân bằng cách: Dự giờ đồng nghiệp, sinh hoạt chuyên môn cùng đồng nghiệp, tham quan các trường bạn về cách sắp xếp, tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ, tìm hiểu chương trình chăm sóc giáo dục trẻ của các trường, tham dự các hội thi của ngành, tham gia các lớp học nâng cao trình độ, học trực tuyến qua truyền hình và internet những nội dung liên quan đến chuyên ngành giáo dục mầm non. Tìm hiểu thêm các kĩ năng ứng xử sư phạm, hình thức tổ chức hoạt động phát triển thể chất, học các sử dụng các phương pháp dạy học trong giờ… Phải tham gia các chương trình bồi dưỡng, tự học qua thực hành trải nghiệm, qua thực tế làm việc.
Hai là: Mỗi bài tập vận động của trẻ giáo viên phải thực hiền tốt động tác mẫu.
Phương pháp làm mẫu bài tập vận động là thông qua thị giác để hình thành biểu tượng trực quan về bài tập vận động. Phương pháp này thường được giáo viên sử dụng khi dạy bài tập mới cho trẻ hoặc khi ôn luyện các bài tập vận động nếu thấy cần thiết.
Cách tiến hành:
Đối với giáo viên: Lần đầu làm mẫu, giáo viên đưa ra biểu tương khái quát về toàn bộ bài tập, lần thứ hai nhấn mạnh chi tiết kỹ thuật của bài tập kết hợp với miêu tả kỹ thuật bài tập từ đầu đến kết thúc bài tập, Lần cuổi nhằm mục đích củng cố ở trẻ biểu tượng khái quátcủa bài tập trên cơ sở đã có những biểu tượng về từng phần của kỹ thuật bài tập.
Đối với trẻ: Quan sát giáo viên làm mẫu, đây là quá trình chuyển hóa hình ảnh của bài tập vận động từ “ngoài” từ mẫu bài tập do giáo viên thực hiện vào “trong” ghi trên vỏ não của trẻ. Sau quá trình này, biểu tượng về bài tập đã được “lưu” vào trong đầu, nó tồn tại như một chuỗi thao tác.
Yêu cầu: khi làm mẫu bài tập vận động giáo viên phải chọn vị trí đứng để tập sao cho tất cả các cháu đều nhìn thấy và nhận đúng mẫu của cô. Khi làm mẫu, giáo viên phải tập đúng, chính xác, nhẹ nhàng, đảm bảo kĩ thuật của bài tập để trẻ có biểu tượng đúng về bài tập vận động, kích thích trẻ tập tốt hơn.
Ba là : Giáo viên phải gọi rõ ràng tên bài tập, miêu tả ngắn gọn, giải thích chính xác kỹ thuật bài tập vận động.
Đặc trưng của phương pháp này là tác động chủ yếu lên hệ thống tín hiệu thứ hai, là sự tái tạo gián tiếp hiện thực trong khái niệm, trong tư duy và suy luận, giúp trẻ trong quá trình quan sát bài tập vận động, hiểu sâu hơn các bước thực hiện, tạo điều kiện cho trẻ tiếp thu bài tập vận động chính xác và đầy đủ hơn.
Cách tiến hành:
Gọi tên bài tập: Tên gọi bài tập vận động nhằm khơi gợi ở trẻ những hình ảnh, biểu tượng về bài tập đó, nhằm phát huy ở trẻ khả năng tưởng tượng và gợi nhớ những bài tập trẻ đã biết. Phương pháp này giúp trẻ nhớ các bài tập vận động không máy móc, dễ nhớ bài tập, làm giảm thời gian giải thích về cách tập cho trẻ.
Miêu tả bài tập: Là lời nói của giáo viên kết hợp với làm mẫu từng phần liên tục của bài tập theo một trình tự nhất định. Nói cách khác, miêu tả là tường thuật lại một cách toàn vẹn và lần lượt những đặc điểm kĩ thuật bài tập đã học. Giáo viên thường miêu tả những bài tập vận động khó hoặc những bài tập đa số trẻ thực hiện chưa đúng. Giáo viên có thể yêu cầu trẻ miêu tả bài tập, giúp trẻ biết cách diễn đạt bài tập vận động bằng lời nói kết hợp với thực hiện bài tập, buộc trẻ phải tập trung chú ý, phát triển tính độc lập, có ý thức trong tập luyện.
Giải thích bài tập: Giải thích khi trẻ đã có biểu tượng chung về bài tập vận động, tiến hành sau khi làm mẫu bài tập đó nhằm nhấn mạnh, đào sâu vào phần cơ bản của bài tập trẻ cần lĩnh hội, dần giúp trẻ hình thành những biểu tượng về các phần cơ bản của kĩ thuật bài tập: vận động của tay, chân, cả cơ thể khi thực hiện bài tập.
Yêu cầu: Lời nói của giáo viên phải có sức lôi cuốn, rõ ràng, mạch lạc và có hình ảnh. Lời giới thiệu đòi hỏi ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Nội dung của việc giới thiệu thay đổi phụ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của từng tiết học, vào đặc điểm cá biệt của trẻ.
Bốn là: Giáo viên linh hoạt sử dụng khẩu lệnh trong hoạt động phát triển vận động cho trẻ.
Khẩu lệnh: là lời dẫn truyền dưới dạng xác định với nội dung chính xác bắt buộc trẻ phải hành động theo.
Ví dụ: Bên phải….. quay!; sẵn sàng…. chạy! ; bước đều…. bước!…
Mục đích của khẩu lệnh là giúp trẻ phản ứng kịp thời khi bắt đầu và kết thúc hành động, tốc độ và hướng vận động chính xác. Khẩu lệnh gồm có dự lệnh (phần trước của khẩu lệnh báo để trẻ chuẩn bị) và động lệnh (phần trẻ phải thực hiện). Khẩu lệnh đưa ra phải đúng lúc, lời phát ra phải to, nhanh, gọn. Dự lệnh phát ra phải kéo dài đủ để trẻ chuẩn bị thực hiện ý đồ của động lệnh. Khi truyền khẩu lệnh, giáo viên phải đứng ở tư thế nghiêm, giọng nói của giáo viên tự tin, dõng dạc, rõ ràng để tổ chức trẻ, yêu cầu trẻ thực hiện bài tập nhanh nhẹn, chính xác.
3. Kết luận
Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên hạn chế năng lực tổ chức hoạt động phát triển vận động không chỉ cung cấp cho giáo viên những kỹ năng sư phạm cơ bản như kỹ năng truyền đạt, kỹ năng giảng dạy mà còn kèm theo đó là những kỹ năng chuyên biệt trong tổ chức phát triển vận động cho trẻ. Từ những thông tin có được, từ đối tượng trẻ mầm non, thầy cô có thể xây dựng lên được phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục tốt nhất. Những đối tượng do năng lực sư phạm còn hạn chế cần thiết phải tham gia khóa học bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm để nâng cao chuyên môn, bổ sung thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm cho bản thân. Góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục của địa phương, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với mỗi giáo viên về việc cần thiết phải có nghiệp vụ sư phạm khi tham gia giảng dạy ở bất kỳ một cơ sở giáo dục mầm non nào.

Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Lưu Xuân Mới, Nguyên phó trưởng khoa Quản lý, Học viện Quản lý Giáo dục “Đào tạo – bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế đổi mới và hội nhập”
2. NQ số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.
3. Đặng Hồng Phương, Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, Nhà xuất bản giáo dục, 2008.
4. Đặng Hồng Phương, Phương pháp hình thành kỹ năng vận động cho trẻ mầm non, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2012.

Th.S Chu Thị Thi Hương
Giảng viên khoa TH-MN


Lưu tin Lưu tin – Bản in Bản in – Download tin Download tin
Các bài mới
  • Khoa Tiểu học Mầm non tổ chức chương trình “Gặp mặt các thế hệ giảng viên, học sinh sinh viên” nhân kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Trường, 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (23/11)
  • Giao lưu “Miền ký ức” – chương trình xúc động và đầy ý nghĩa (23/11)
  • Cô giáo và mái trường (23/11)
  • Lớp CĐ16MN1 tổ chức lễ tri ân Kỉ niệm 35 năm ngày nhà giáo Việt Nam (23/11)
  • Tri ân thầy cô giáo nhân dịp chào mừng 35 năm ngày nhà giáo Việt Nam (20-11-1982, 20/11/2017) (17/11)
  • Lớp CĐ16MN2 tổ chức giao lưu văn nghệ chào mừng 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (17/11)
  • Sinh viên khoa Tiểu học – Mầm non luyện tập văn nghệ chào mừng Hội khoa nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Trường (11/11)
  • Hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của lớp TC16MN tại trường Mần non Bình Minh – Thành phố Lào Cai (10/11)
Các bài đã đăng
  • Cảm nhận về hoạt động thể dục sáng của các bé ở trường mầm non Bắc Cường (02/11)
  • Đôi điều cảm nhận về Hội thảo chuyên đề “Học sinh, sinh viên ngành mầm non với hoạt động nghiên cứu khoa học” (31/10)
  • Thực trạng và giải pháp đảm bảo tỷ lệ chuyên cần cho học sinh sinh viên trường CĐSP Lào Cai (31/10)
  • Một số trao đổi về việc làm khóa luận của sinh viên (31/10)
  • Khoa TH-MN tổ chức thành công hội thảo chuyên đề “Học sinh – sinh viên chuyên ngành Mầm non với hoạt động nghiển cứu khoa học” (31/10)
  • Khoa Tiểu học- Mầm non tổng kết công tác thực tập sư phạm năm học 2015-2016 (28/04)
  • Hoạt động thực tế của học sinh lớp TC15TH tại trường Tiểu học Sa Pả II – Huyện Sa Pa (25/03)
  • Hoạt động thực tế phổ thông của giảng viên khoa Tiểu học- Mầm non (22/03)
Lưu tin Lưu tin – Bản in Bản in – Download tin Download tin